DỊCH VỤ CỦA CHÚNG TÔI | LUẬT SƯ VIỆT | LUẬT SƯ CỦA BẠN

Từ ngày 1.7.2025, Luật Thuế giá trị gia tăng 2024 chính thức có hiệu lực và đưa vào thi hành. Một trong những thay đổi quan trọng là quy định về điều kiện để được khấu trừ thuế giá trị gia tăng (GTGT) đầu vào. Cụ thể sẽ được trình bày trong bài viết dưới đây: Căn cứ tại Khoản 2, Điều 14, Luật Giá trị gia tăng số 48/2024/QH15 được hướng dẫn bởi Mục 2 Chương III Nghị định 181/2025/NĐ-CP quy định điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào như sau: - Có hóa đơn GTGT của hàng hóa, dịch vụ mua vào hoặc chứng từ nộp thuế GTGT ở khâu nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng thay cho phía nước ngoài theo quy định. - Có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào (bao gồm cả hàng hóa nhập khẩu) từ 05 triệu đồng trở lên đã bao gồm thuế giá trị gia tăng trừ một số trường hợp đặc thù theo quy định của Chính phủ (quy định tại khoản 2 điều 26 Nghị định 181/2025/NĐ-CP). - Đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, ngoài các điều kiện quy định còn phải có: + Hợp đồng ký kết với bên nước ngoài về việc bán, gia công hàng hóa, cung cấp dịch vụ + Hóa đơn bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ + Chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt + Tờ khai hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu (trừ trường hợp không cần phải có tờ khai hải quan theo quy định của pháp luật về hải quan) + Phiếu đóng gói, vận đơn, chứng từ bảo hiểm hàng hóa (nếu có). Công thức tính thuế GTGT phải nộp: Số thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra – Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ (Thuế GTGT đầu ra = Tổng số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ bán ra ghi trên hóa đơn GTGT; Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ = Tổng số thuế GTGT đã trả khi mua hàng hóa, dịch vụ dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh). Trên đây là tư vấn của Công ty Luật Phương Bình. Quý khách hàng có thắc mắc vui lòng liên hệ: 0927.625.666 để được Luật sư tư vấn.
Luật số 90/2025/QH15, còn được gọi là Luật sửa đổi 8 luật, đã được Quốc hội thông qua ngày 25/6/2025, có hiệu lực từ ngày 01/07/2025. Luật này sửa đổi, bổ sung một số điều của 8 luật, bao gồm Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Hải quan, Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, và Luật Quản lý, sử dụng tài sản công. Trong đó, đáng chú ý là quy định sửa đổi, bổ sung Điều 12 của Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư về thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP, cụ thể: Thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP được sửa đổi, bổ sung như sau: 1. Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP đáp ứng tiêu chí phân loại dự án quan trọng quốc gia theo quy định của pháp luật đầu tư công, trừ dự án nhà máy điện hạt nhân. 2. Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư dự án nhà máy điện hạt nhân. 3. Trừ dự án quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, Bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan trung ương, cơ quan khác quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP sau đây: a) Dự án có sử dụng vốn nhà nước thuộc phạm vi quản lý của Bộ, cơ quan trung ương, cơ quan khác; b) Dự án áp dụng loại hợp đồng BT thanh toán bằng nguồn ngân sách nhà nước thuộc phạm vi quản lý của Bộ, cơ quan trung ương, cơ quan khác. 4. Trừ dự án quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP sau đây: a) Dự án nhóm A theo quy định của pháp luật về đầu tư công có sử dụng vốn nhà nước thuộc phạm vi quản lý của địa phương; b) Dự án quy định tại khoản 3 Điều 5 của Luật này được giao địa phương đó làm cơ quan có thẩm quyền là dự án nhóm A theo quy định của pháp luật về đầu tư công có sử dụng vốn nhà nước; c) Dự án áp dụng loại hợp đồng BT thanh toán bằng ngân sách nhà nước có tổng mức đầu tư tương đương dự án nhóm A theo quy định của pháp luật về đầu tư công sử dụng vốn đầu tư công để thanh toán cho nhà đầu tư. 5. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP sau đây: a) Dự án thuộc phạm vi quản lý của địa phương có tổng mức đầu tư tương đương dự án nhóm B, nhóm C theo quy định của pháp luật về đầu tư công có sử dụng vốn nhà nước; b) Dự án quy định tại khoản 3 Điều 5 của Luật này được giao địa phương đó làm cơ quan có thẩm quyền có tổng mức đầu tư tương đương dự án nhóm B, nhóm C theo quy định của pháp luật về đầu tư công có sử dụng vốn nhà nước; c) Dự án áp dụng loại hợp đồng BT thanh toán bằng nguồn ngân sách nhà nước thu được sau đấu giá quyền sử dụng đất, tài sản công đối với quỹ đất, tài sản công thuộc phạm vi quản lý của địa phương; d) Dự án áp dụng loại hợp đồng BT thanh toán bằng ngân sách nhà nước có tổng mức đầu tư tương đương dự án nhóm B, nhóm C theo quy định của pháp luật về đầu tư công sử dụng vốn đầu tư công để thanh toán cho nhà đầu tư. Trên đây là tư vấn của Công ty Luật Phương Bình. Quý khách hàng có thắc mắc vui lòng liên hệ: 0927.625.666 để được Luật sư tư vấn.
Trong những năm gần đây, hoạt động tài chính, ngân hàng, hoạt động thông tin tín dụng diễn ra ngày càng mạnh mẽ, điều này một mặt thúc đẩy phát triển kinh tế quốc gia, một mặt cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro liên quan tới vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân. Hiện nay, ở Việt Nam chưa có văn bản Luật quy định thống nhất hướng dẫn về Bảo vệ dữ liệu cá nhân, hiện tại chỉ có Nghị định 13/2023/NĐ-CP quy định bảo vệ dữ liệu cá nhân. Để có sự thống nhất trong việc áp dụng quy định pháp luật và có văn bản điều chỉnh cụ thể, Quốc Hội đã chính thức ban hành dự thảo Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân và sẽ có hiệu lực vào ngày 01/01/2026 với quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động tài chính, ngân hàng, hoạt động thông tin tín dụng như sau: Điều 27, Dự thảo quy định các biện pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân trong các lĩnh vực liên quan đến tài chính, đảm bảo quyền lợi của cá nhân trong việc quản lý và sử dụng thông tin tín dụng: Tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, hoạt động thông tin tín dụng có trách nhiệm sau đây: a) Thực hiện đầy đủ quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân nhạy cảm, các tiêu chuẩn an toàn, bảo mật trong hoạt động tài chính, ngân hàng theo quy định của pháp luật; b) Không sử dụng thông tin tín dụng của chủ thể dữ liệu cá nhân để chấm điểm, xếp hạng tín dụng, đánh giá thông tin tín dụng, đánh giá mức độ tín nhiệm về tín dụng của chủ thể dữ liệu cá nhân khi chưa có sự đồng ý của chủ thể dữ liệu cá nhân; c) Chỉ thu thập những dữ liệu cá nhân cần thiết phục vụ cho hoạt động thông tin tín dụng từ các nguồn phù hợp với quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan; d) Thông báo cho chủ thể dữ liệu cá nhân trong trường hợp lộ, mất thông tin về tài khoản ngân hàng, tài chính, tín dụng, thông tin tín dụng. Tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động thông tin tín dụng có trách nhiệm tuân thủ quy định của Luật này; áp dụng các biện pháp phòng, chống truy cập, sử dụng, tiết lộ, chỉnh sửa trái phép dữ liệu cá nhân của khách hàng; có giải pháp khôi phục dữ liệu cá nhân của khách hàng trong trường hợp bị mất; bảo mật trong quá trình thu thập, cung cấp, xử lý dữ liệu cá nhân của khách hàng phục vụ đánh giá thông tin tín dụng. Trên đây là tư vấn của Công ty Luật Phương Bình. Quý khách hàng có thắc mắc vui lòng liên hệ: 0927.625.666 để được Luật sư tư vấn.
Ngày 29/6/2024 Quốc hội đã thông qua Luật số 42/2024/QH15 về Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ. Luật có hiệu lực từ ngày 01/01/2025 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong công tác quản lý nhà nước và phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật về vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ trên địa bàn cả nước trong tình hình mới. Trong đó, luật đã bổ sung quy định về điều kiện, thẩm quyền tiếp nhận và quản lý, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ do tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài tặng, cho, viện trợ, cụ thể: Theo đó, tại khoản 1, Điều 15, Luật quy định:           - Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng có chức năng nghiên cứu, chế tạo, sản xuất vũ khí, công cụ hỗ trợ hoặc cơ quan, tổ chức được trang bị vũ khí, công cụ hỗ trợ theo quy định của Luật này được tiếp nhận vũ khí, công cụ hỗ trợ do tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài tặng, cho, viện trợ.           - Về điều kiện tiếp nhận phải đảm bảo các điều kiện quy định tại điểm a, b, c, d, Khoản 2, Điều 15: + Tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài tặng, cho, viện trợ vũ khí, công cụ hỗ trợ phải bảo đảm phù hợp với pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và thỏa thuận quốc tế có liên quan; + Vũ khí, công cụ hỗ trợ tiếp nhận phải bảo đảm phù hợp quy định của pháp luật Việt Nam, các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; + Chỉ được tiếp nhận vũ khí, công cụ hỗ trợ để nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, trang bị, sử dụng hoặc trưng bày, triển lãm theo quy định của Luật này; + Vũ khí, công cụ hỗ trợ tiếp nhận phải rõ nguồn gốc, xuất xứ và bảo đảm phù hợp tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật Việt Nam. Trên đây là tư vấn của Công ty Luật Phương Bình. Quý khách hàng có thắc mắc vui lòng liên hệ: 0927.625.666 để được Luật sư tư vấn.
Ngày 6/01/2025, Chính phủ ban hành Nghị định 05/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 08/2022/NĐ-CP. Trong Nghị định sửa đổi, bổ sung đã bổ sung hướng dẫn về nộp hồ sơ đề nghị và nộp phí thẩm định cấp giấy phép môi trường trong một số trường hợp, cụ thể trong bài viết dưới đây: Theo khoản 11 Điều 1 Nghị định 05/2025/NĐ-CP đã bổ sung hướng dẫn về nộp hồ sơ đề nghị và nộp phí thẩm định cấp giấy phép môi trường trong một số trường hợp, cụ thể: - Thẩm quyền cấp giấy phép môi trường thuộc cơ quan cấp trên trong các trường hợp sau: + Dự án đầu tư, cơ sở có cùng địa điểm hoạt động, cùng chủ đầu tư và có các quyết định phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường. + Hồ sơ về môi trường khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác nhau phê duyệt. - Trường hợp dự án đầu tư, cơ sở có địa điểm hoạt động liền kề nhau, cùng chủ đầu tư, cùng chung hệ thống xử lý nước thải hoặc khí thải thì được xem xét tích hợp trong một giấy phép môi trường. - Trường hợp dự án đầu tư đã được phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, chủ dự án đầu tư có nhu cầu chia tách dự án phải thực hiện các quy định của pháp luật về đánh giá tác động môi trường. - Trường hợp dự án đầu tư, cơ sở đã được cấp giấy phép môi trường, giấy phép môi trường thành phần theo quy định chia tách thành nhiều dự án, cơ sở thì chủ dự án, cơ sở được kế thừa nội dung giấy phép môi trường, giấy phép môi trường thành phần đã được cấp trong thời hạn của giấy phép. Trong thời gian 06 tháng kể từ ngày chia tách theo quy định của pháp luật, chủ dự án, cơ sở sau chia tách phải lập hồ sơ cấp đổi giấy phép môi trường theo quy định của pháp luật. Dự án, cơ sở sau chia tách thực hiện thủ tục cấp, cấp điều chỉnh, cấp lại hoặc thực hiện đăng ký môi trường theo quy định trước khi giấy phép môi trường, giấy phép môi trường thành phần đã cấp hết hiệu lực. Theo đó, doanh nghiệp nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép môi trường và nộp phí thẩm định cấp giấy phép môi theo hướng dẫn phía trên. Trên đây là tư vấn của Công ty Luật Phương Bình. Quý khách hàng có thắc mắc vui lòng liên hệ: 0927.625.666 để được Luật sư tư vấn.
Nghị định 05/2025/NĐ-CP ra đời đã sửa đổi, bổ sung một số quy định trong Nghị định 08/2022/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường. Trong đó, có quy định bổ sung về trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc tham vấn tổ chức thực hiện tham vấn nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường. Cụ thể:  Theo quy định tại khoản 8, Điều 1, Nghị định 05/2025/NĐ-CP, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm phối hợp với chủ dự án tổ chức thực hiện tham vấn nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường theo quy định tại điểm b và điểm c khoản này; thông tin về số lượng phiếu lấy ý kiến tham vấn đã gửi và số lượng phiếu lấy ý kiến tham vấn nhận được trong ý kiến tham vấn bằng văn bản theo quy định tại điểm c khoản này; quyết định việc kết hợp tham vấn báo cáo đánh giá tác động môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường với việc lấy ý kiến của cộng đồng dân cư về dự án theo quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở. Như vậy, Ủy ban nhân dân cấp xã phải có trách nhiệm phối hợp với chủ dự án đầu tư thực hiện tham vấn nội dung báo cáo đánh giác tác động môi trường với các hình thức tổ chức họp lấy ý kiến và tham vấn bằng văn bản: 1. Tham vấn bằng tổ chức họp lấy ý kiến Chủ dự án đầu tư chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thực hiện dự án niêm yết báo cáo đánh giá tác động môi trường tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và thông báo thời gian, địa điểm tổ chức họp tham vấn lấy ý kiến các đối tượng quy định tại điểm a khoản 1 Điều này trước thời điểm họp ít nhất là 05 ngày. Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm niêm yết báo cáo đánh giá tác động môi trường kể từ khi nhận được báo cáo đánh giá tác động môi trường cho đến khi kết thúc hoạt động tham vấn cộng đồng dân cư, cá nhân; tổ chức họp tham vấn lấy ý kiến cộng đồng dân cư, cá nhân theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này trong thời hạn tối đa là 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị của chủ dự án đầu tư. Chủ dự án đầu tư có trách nhiệm trình bày nội dung tham vấn tại cuộc họp tham vấn. Ý kiến của các đại biểu tham dự cuộc họp và các phản hồi, cam kết của chủ dự án đầu tư phải được thể hiện đầy đủ, trung thực trong biên bản họp tham vấn cộng đồng theo mẫu do Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định; 2. Tham vấn bằng văn bản Chủ dự án đầu tư chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thực hiện dự án gửi phiếu lấy ý kiến tham vấn theo mẫu quy định tại Phụ lục Vlb ban hành kèm theo Nghị định này tới các đối tượng quy định tại điểm a khoản 1 Điều này mà không tham dự họp lấy ý kiến. Chủ dự án đầu tư gửi báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án đến các đối tượng theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này kèm theo văn bản tham vấn theo mẫu quy định tại Phụ lục VI và nội dung tham vấn theo mẫu quy định tại Phụ lục VIa ban hành kèm theo Nghị định này. Các đối tượng được tham vấn bằng văn bản có trách nhiệm phản hồi bằng văn bản theo mẫu quy định tại Phụ lục VII ban hành kèm theo Nghị định này trong thời hạn không quá 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản tham vấn. Trường hợp không có phản hồi trong thời hạn quy định được coi là thống nhất với nội dung tham vấn. Trên đây là tư vấn của Công ty Luật Phương Bình. Quý khách hàng có thắc mắc vui lòng liên hệ: 0927.625.666 để được Luật sư tư vấn.
Ngày 25/6/2025 Quốc hội đã thông qua Luật số 90/2025/QH15 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Hải quan, Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công. Luật chính thức có hiệu lực từ ngày 01/07/2025, những sửa đổi, bổ sung trong Luật này giúp gỡ bỏ một số vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật trước đây, đáng chú ý là việc không còn quy định cụ thể giá trị gói thầu chào hàng cạnh tranh, tạo sự linh hoạt trong quá trình đấu thầu, cụ thể: Trước đây, tại Điều 24, Luật Đấu thầu 2023 quy định chào hàng cạnh tranh áp dụng với gói thầu có giá ≤ 05 tỷ đồng, thuộc một trong trường hợp: + Gói thầu dịch vụ phi tư vấn thông dụng, đơn giản; + Gói thầu mua sắm hàng hóa thông dụng, sẵn có trên thị trường với đặc tính kỹ thuật được tiêu chuẩn hóa và tương đương nhau về chất lượng; + Gói thầu xây lắp công trình đơn giản đã có thiết kế bản vẽ thi công được phê duyệt; + Gói thầu hỗn hợp cung cấp hàng hóa và xây lắp, đáp ứng yêu cầu cụ thể. Tuy nhiên, hiện tại Luật sửa đổi quy định chào hàng cạnh tranh được áp dụng đối với gói thầu có giá gói thầu trong hạn mức theo quy định của Chính phủ thuộc một trong các trường hợp sau đây: + Gói thầu dịch vụ phi tư vấn thông dụng, đơn giản; + Gói thầu mua sắm hàng hóa thông dụng, sẵn có trên thị trường với đặc tính kỹ thuật được tiêu chuẩn hóa và tương đương nhau về chất lượng; + Gói thầu xây lắp công trình đơn giản đã có thiết kế bản vẽ thi công được phê duyệt; + Gói thầu hỗn hợp cung cấp hàng hóa và xây lắp, trong đó nội dung xây lắp đáp ứng quy định tại điểm c khoản này. - Đối với gói thầu áp dụng chào hàng cạnh tranh, hồ sơ mời thầu không bắt buộc quy định tiêu chuẩn đánh giá về năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu. Việc bỏ quy định cứng về giá trị giúp các chủ đầu tư, bên mời thầu có thể linh hoạt lựa chọn hình thức chào hàng cạnh tranh cho các gói thầu phù hợp với tình hình thực tế, đồng thời vẫn đảm bảo tính cạnh tranh, công khai, minh bạch và hiệu quả trong quá trình đấu thầu.  Trên đây là tư vấn của Công ty Luật Phương Bình. Quý khách hàng có thắc mắc vui lòng liên hệ: 0927.625.666 để được Luật sư tư vấn.
Căn cứ định hướng phát triển kinh tế - xã hội và khả năng cân đối ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ, Chính phủ quy định chi tiết các hình thức hỗ trợ đầu tư đối với các đối tượng cụ thể như sau: 1. Các hình thức hỗ trợ đầu tư Căn cứ khoản 1 Điều 18 Luật Đầu tư 2020, các hình thức hỗ trợ đầu tư bao gồm: - Hỗ trợ phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong và ngoài hàng rào dự án đầu tư; - Hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; - Hỗ trợ tín dụng; - Hỗ trợ tiếp cận mặt bằng sản xuất, kinh doanh; hỗ trợ cơ sở sản xuất, kinh doanh di dời theo quyết định của cơ quan nhà nước; - Hỗ trợ khoa học, kỹ thuật, chuyển giao công nghệ; - Hỗ trợ phát triển thị trường, cung cấp thông tin; - Hỗ trợ nghiên cứu và phát triển. 2. Đối tượng được hỗ trợ đầu tư Đối tượng được hỗ trợ đầu tư theo quy định tại khoản 2 Điều 18 Luật Đầu tư 2020 bao gồm: - Doanh nghiệp công nghệ cao; - Doanh nghiệp khoa học và công nghệ, tổ chức khoa học và công nghệ; - Doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; - Doanh nghiệp đầu tư vào giáo dục, phổ biến pháp luật và các đối tượng khác. Trên đây là tư vấn của Công ty Luật Phương Bình. Quý khách hàng có thắc mắc vui lòng liên hệ: 0927.625.666 để được Luật sư tư vấn.
Nghị định 168/2025/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp có quy định các trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp xã từ chối cấp đăng ký hộ kinh doanh. Vậy khi bị từ chối cấp đăng ký hộ kinh doanh thì thương nhân có được đăng ký lại không? Câu trả lời sẽ được trình bày cụ thể trong bài viết dưới đây: 1. Các trường hợp cơ quan đăng ký kinh doanh cấp xã từ chối cấp đăng ký hộ kinh doanh Khoản 1, Điều 102, Nghị định quy định một số trường hợp cơ quan đăng ký kinh doanh cấp xã từ chối cấp đăng ký hộ kinh doanh như sau: - Hộ kinh doanh đã bị Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp xã ra thông báo về hành vi vi phạm của hộ kinh doanh thuộc trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh hoặc đã bị ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh; - Hộ kinh doanh đang trong tình trạng pháp lý “Không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký”. Tuy nhiên, có một số trường hợp cơ quan đăng ký kinh doanh cấp xã vẫn tiếp tục giải quyết thủ tục đăng ký hộ kinh doanh.  2. Trường hợp cơ quan đăng ký kinh doanh cấp xã tiếp tục giải quyết thủ tục đăng ký hộ kinh doanh cho hộ kinh doanh  Khoản 2, Điều 102 Nghị định có quy định một số trường hợp sau: - Hộ kinh doanh đã có biện pháp khắc phục những vi phạm theo yêu cầu trong thông báo về hành vi vi phạm của hộ kinh doanh thuộc trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh và được Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp xã chấp nhận hoặc đã được khôi phục tình trạng pháp lý sau khi bị ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh. - Hộ kinh doanh phải đăng ký thay đổi nội dung đăng ký hộ kinh doanh để phục vụ việc chấm dứt hoạt động hộ kinh doanh theo quy định. Trong trường hợp này, hồ sơ đăng ký thay đổi phải kèm theo văn bản giải trình của hộ kinh doanh về lý do đăng ký thay đổi và được Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp xã chấp nhận. - Hộ kinh doanh không còn trong tình trạng pháp lý "Không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký". Trên đây là tư vấn của Công ty Luật Phương Bình. Quý khách hàng có thắc mắc vui lòng liên hệ: 0927.625.666 để được Luật sư tư vấn.
Từ Luật Lao động năm 1994, hình thức hòa giải lao động chính thức được thông qua tại Việt Nam, đánh dấu bước chuyển mình lớn của nền pháp lý Việt Nam tiến tới một hệ thống pháp luật lao động nhằm đảm bảo quyền lợi và nguyên tắc công bằng cho người lao động. Theo quy định của Bộ Luật Lao động năm 2019, tranh chấp lao động cá nhân phải được giải quyết thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động hoặc Tòa án giải quyết, tuy nhiên vẫn có một số trường hợp không bắt buộc phải thông qua hòa giải, cụ thể được trình bày trong bài viết dưới đây: Căn cứ theo quy định tại khoản 1, Điều 188, Bộ luật Lao động năm 2019 đã chỉ rõ các trường hợp tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động và đơn vị sử dụng lao động được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết mà không cần qua bước hòa giải bao gồm: - Tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; - Tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động; - Tranh chấp giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động; - Tranh về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật; - Tranh chấp về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; - Tranh chấp giữa người lao động thuê lại với người sử dụng lao động thuê lại. Nếu thuộc các trường hợp này, người lao động hoặc người sử dụng lao động có thể kiện thẳng ra Tòa theo thủ tục tố tụng dân sự. Các trường hợp còn lại đều phải thực hiện hòa giải nhờ hòa giải viên lao động theo đúng trình tự, thủ tục tại Điều 188 Bộ luật Lao động năm 2019. Trên đây là tư vấn của Công ty Luật Phương Bình. Quý khách hàng có thắc mắc vui lòng liên hệ: 0927.625.666 để được Luật sư tư vấn.
Ngày 06/01/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định 05/2025/NĐ-CP để sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 08/2022/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường. Trong các nội dung của Nghị định 05/2025/NĐ-CP, có một số quy định đáng chú ý về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu trong việc xử lý chất thải và tái chế sản phẩm, bao bì (EPR), cụ thể là về hình thức thực hiện trách nhiệm tái chế:  Trong Luật bảo vệ môi trường năm 2020 và Nghị định 08/2022/NĐ-CP, nhà sản xuất, nhà nhập khẩu có thể chọn thực hiện trách nhiệm tái chế sản phẩm, bao bì theo một trong các hình thức: (i) tổ chức tái chế sản phẩm, bao bì; hoặc (ii) đóng góp tài chính vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam để hỗ trợ tái chế. Trường hợp chọn hình thức “tổ chức tái chế sản phẩm, bao bì”, nhà sản xuất, nhà nhập khẩu có thể chọn thực hiện thông qua một hoặc kết hợp các cách thức: (a) tự thực hiện tái chế, (b) thuê đơn vị tái chế để thực hiện tái chế; (c) ủy quyền cho tổ chức trung gian để tổ chức thực hiện tái chế. Nghị định 05/2025/NĐ-CP đã có sự sửa đổi bổ sung đối với các cách thức đề cập đến ở điểm (b) và (c) nêu trên. Đối với cách thức đã đề cập ở điểm (b): Nghị định 05 làm rõ yêu cầu đối với các đơn vị tái chế phải “có giấy phép môi trường hoặc giấy phép môi trường thành phần trong đó có nội dung tái chế sản phẩm, bao bì”, từ đó tạo cơ sở để xác định việc đáp ứng điều kiện theo luật định đối với các đơn vị tái chế. Đối với cách thức ở điểm (c): Nghị định 05 bổ sung quy định làm rõ trách nhiệm của đơn vị này phải “tổ chức thu gom và chịu trách nhiệm đối với khối lượng sản phẩm, bao bì làm nguyên liệu cho đơn vị tái chế tương ứng với khối lượng nhận ủy quyền”, đồng thời không được ủy quyền lại cho tổ chức khác nếu chưa được sự đồng ý của nhà sản xuất, nhập khẩu đã uỷ quyền. Ngoài ra, Nghị định 05 cụ thể hóa hình thức công bố các đơn vị tái chế và bên được ủy quyền. Theo đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ công bố các đơn vị đáp ứng điều kiện trên Hệ thống thông tin EPR quốc gia trong vòng năm ngày làm việc kể từ khi nhận được đề nghị, thay vì phải chờ thời gian dài để được đánh giá và được công bố như trước đây. Các quy định trên giúp cho các doanh nghiệp có thể dễ dàng hơn trong việc thực thi các nghĩa vụ EPR. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng cần phải lưu ý trong quá trình sản xuất kinh doanh: - Các doanh nghiệp nên lựa chọn hình thức tổ chức tái chế sản phẩm và bao bì thay vì đóng góp tài chính vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam do các quy định điều chỉnh việc đóng góp tài chính chưa rõ ràng; -  Cập nhật các hướng dẫn từ cơ quan có thẩm quyền và tham vấn các chuyên gia về tác động, việc áp dụng và tuân thủ các quy định về EPR đối với hoạt động của doanh nghiệp. Trên đây là tư vấn của Công ty Luật Phương Bình. Quý khách hàng có thắc mắc vui lòng liên hệ: 0927.625.666 để được Luật sư tư vấn.
Luật Cán bộ, công chức 2025 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2025 quy định về trường hợp được ưu tiên khi tuyển dụng công chức như sau: 1. Trường hợp được ưu tiên khi tuyển dụng công chức: Theo khoản 4 Điều 18 Luật Cán bộ, công chức 2025. "Điều 18. Nguyên tắc tuyển dụng công chức [...] 4. Ưu tiên tuyển dụng người có tài năng, người có công với nước, người dân tộc thiểu số." Theo đó, đối với việc tuyển dụng công chức những trường hợp sau sẽ được ưu tiên khi tuyển dụng:  1. Người có tài năng  2. Người có công với nước  3. Người dân tộc thiểu số  2. Điều kiện để được đăng ký tuyển dụng công chức: Theo Điều 19 Luật Cán bộ, công chức 2025. "Điều 19. Điều kiện đăng ký dự tuyển công chức   1. Người có đủ các điều kiện sau đây được đăng ký dự tuyển công chức:   a) Có 01 quốc tịch là quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật Quốc tịch;   b) Đang cư trú tại Việt Nam;   c) Đủ 18 tuổi trở lên;   d) Có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt; có lý lịch rõ ràng;   đ) Đủ sức khỏe để thực hiện nhiệm vụ;   e) Đáp ứng các điều kiện theo yêu cầu của vị trí việc làm dự tuyển.   2. Người đăng ký dự tuyển vào vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý, ngoài đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này, còn phải đáp ứng tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm theo quy định, trừ trường hợp thực hiện theo quyết định của cấp có thẩm quyền." 3. Phương thức, thẩm quyền tuyển dụng công chức: Theo Điều 20 Luật Cán bộ, công chức 2025. "Điều 20. Phương thức, thẩm quyền tuyển dụng công chức   1. Việc tuyển dụng công chức vào vị trí việc làm được thực hiện thông qua các phương thức sau đây:   a) Thi tuyển;   b) Xét tuyển đối với một số nhóm đối tượng theo quy định của Chính phủ.   2. Ngoài việc tuyển dụng công chức thông qua thi tuyển hoặc xét tuyển, cơ quan quản lý công chức quyết định tiếp nhận vào làm công chức đối với các đối tượng sau đây:   a) Chuyên gia, nhà khoa học, luật gia, luật sư giỏi, doanh nhân tiêu biểu, xuất sắc được thu hút vào làm việc trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội;   b) Người có kinh nghiệm, đáp ứng ngay yêu cầu của vị trí việc làm, đang là viên chức, người hưởng lương trong Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, tổ chức cơ yếu mà không phải là công chức và các trường hợp khác đang làm việc tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị.   3. Cơ quan quản lý công chức thực hiện tuyển dụng hoặc phân cấp, ủy quyền thẩm quyền tuyển dụng cho cơ quan sử dụng công chức thực hiện.   4. Người được tuyển dụng được bố trí vào vị trí việc làm và xếp ngạch công chức tương ứng.   5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này." Trên đây là tư vấn của Công ty Luật Phương Bình. Quý khách hàng có thắc mắc vui lòng liên hệ: 0927.625.666 để được Luật sư tư vấn.
 
hotline 0927625666